Cổ Long tên thật là Hùng Diệu Hoa (熊耀華). Năm sinh chưa được xác định, có tài liệu nói ông sinh năm 1936, có tài liệu nói năm 1937[cần dẫn nguồn]. Có tài liệu nói ông sinh tại Hồng Kông, có tài liệu nói ông sinh ở Trung Hoa lục địa. Tuy nhiên, quê quán (tổ tịch) của ông là ở Giang Tây (江西, Jiangxi), Trung Quốc[cần dẫn nguồn]. Ông là một tác gia tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng mọi thời đại, là người khởi nguồn cho dòng tiểu thuyết kiếm hiệp tân phái.
Năm 1952,
Cổ Long theo cha mẹ di cư sang Đài Loan sinh sống. Thời thơ ấu, Cổ Long
luôn cảm thấy lẻ loi, cô độc. Do hoàn cảnh khó khăn, ông thường phải
chứng kiến cảnh cha mẹ bất hòa, gây gổ với nhau. Sau đó, gia đình tan
vỡ, cha mẹ chính thức ly dị. Bởi lý do đó mà ông bỏ nhà, sống một mình
tại trấn Thụy Phương, ở ngoại ô quận Đài Bắc (台北縣瑞芳鎮), tự lực tìm cách sinh nhai và học hành. Ngay từ thuở nhỏ, Cổ Long đã đọc và rất yêu thích các tác phẩm võ hiệp cổ điển của Trung Quốc. Sau đó mấy năm, ông còn đọc thêm các bộ tiểu thuyết cận đại của Nhật Bản, các tác phẩm văn học của Tây phương.
Cổ Long bắt đầu viết văn từ rất sớm. Từ khi học năm thứ hai ở Bộ Sơ trung, Trường Cao cấp Trung học, thuộc Đại học Sư phạm Đài Loan 師大附中初中部 (tương đương lớp 7 ở Việt Nam), ông đã bắt đầu phiên dịch các tác phẩm văn học ngắn của Tây phương. Bản dịch đầu tiên của ông gửi đăng ở tạp chí Thanh niên Tự do (自由青年) và kiếm được một ít nhuận bút. Tuy nhiên, sự nghiệp văn chương của Cổ Long chính thức bắt đầu là vào thời gian cuối cấp II. Năm 1956, Cổ Long đã viết bài văn "Từ miền Bắc đến miền Nam" (從北國到南國) gửi đăng ở tạp chí "Ánh mai" (tức "Thần quang" 晨光) do Ngô Khải Vân chủ biên (吳凱雲主編) và nhận được khoản nhuận bút kha khá. Bắt đầu từ đó, Cổ Long tiếp tục viết thêm nhiều bộ tiểu thuyết và văn xuôi, tuy nhiên các tác phẩm thuở ấy chỉ thuần về văn học và chủ yếu là viết về tình yêu nam nữ.
Sau khi tốt nghiệp Cấp III tại trường Trung học Thành Công (成功中學),
năm 1957, Cổ Long thi đậu vào Trường Cao đẳng dân lập chuyên khoa Anh
ngữ "Đạm Giang" (淡江私立高等英語專科學校, trường này thành lập từ năm 1950, đến 1980
được nâng cấp thành Trường Đại học Đạm Giang, 淡江大學). Tuy nhiên, sang
năm thứ hai thì Cổ Long nghỉ học, chính thức sống bằng nghề viết văn.
Năm 1960, qua sự động viên và ủng hộ của bạn bè, Cổ Long đã viết bộ Thương khung thần kiếm (蒼穹神劍). Đây là bộ truyện mở đầu cho sự nghiệp tiểu thuyết võ hiệp của ông, vì vậy, kỹ thuật viết không hay, nó giống như là thuật lại sơ lược một câu chuyện.
Trong thời gian 1960-1964, Cổ Long viết được hơn chục bộ truyện võ hiệp nhưng hầu hết đều ở mức trung bình. Chỉ đến năm 1965
thì sự nghiệp mới bắt đầu chín mùi, lúc đó ông có thể viết cùng lúc hai
ba bộ tiểu thuyết với nội dung đặc sắc và luôn giao bản thảo sớm hơn
thời gian qui định. Mười năm sau, không biết có phải sức khoẻ suy thoái
do tửu sắc mà các tác phẩm võ hiệp của ông dần dần mất đi những ý tưởng độc đáo (năm 1977 ông đã phát hiện mình mắc bệnh viêm gan, sức khoẻ ngày càng suy giảm nhưng vẫn cứ tiếp tục uống rượu).
Năm 1980, trong khi ăn tiệc ở nhà hàng "Ngâm tùng Các" (吟松阁), không
biết ông gây xích mích rồi ẩu đã như thế nào mà bị người ta chém. Vết
thương khá nặng, làm cho ông mất máu khá nhiều, nghe nói đến 2 lít.
Khoảng thời gian đó đến cuối đời, Cổ Long bắt đầu sa sút, luôn nhận
tiền nhuận bút trước của các nhà xuất bản nhưng thường giao bản thảo trễ
hạn. Hoặc tác phẩm mở đầu thì khá nhưng về sau có lẽ do viết tháu để
nộp bài cho kịp, vì vậy mà câu chuyện đầu voi đuôi chuột (Hổ đầu xà vĩ).
Có đôi lúc Cổ Long lại bỏ dỡ nữa chừng, nhà xuất bản buộc phải tìm
những Sinh viên Đại học có khả năng để viết tiếp phần cuối. Lúc ấy trên
lĩnh vực tiểu thuyết võ hiệp xuất hiện bút danh "Thượng Quan Đỉnh"
(上官鼎), đó tuyệt không phải là bút danh
của một nhà văn nào mà chính là nhiều sinh viên Đài Loan, người này
tiếp nối người kia để viết bổ sung cho tác phẩm của Cổ Long. Việc làm
này đưa đến một sự kiện dở khóc dở cười là ở tác phẩm "Kiếm độc Mai
Hương" (劍毒梅香), Thượng Quan Đỉnh viết phần cuối càng về sau càng trật bản
lề, dẫn đến việc độc giả lo âu nghiêm trọng. Ngay cả Cổ Long, khi xem
lại phần viết thêm của Thượng Quan Đỉnh cũng cảm thấy muốn té xỉu. Để
sửa sai, Cổ Long phải chấp bút viết lại phần cuối của bộ sách này.
Trong suốt cuộc đời của Cổ Long, có lẽ bị ảnh hưởng từ gia đình mà
ông rất sợ cô độc. Bởi thiếu thốn tình yêu thương trong gia đình, ông
giao thiệp với bạn bè rất rộng và đối xử với họ rất tốt. Ông uống rượu
nhiều và thường kết giao với bạn bè qua bàn rượu, vì vậy mà quan hệ bạn
bè của Cổ Long khá phức tạp. Những người bạn cùng học với ông ở Trường
chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang" kể lại rằng ông có quan hệ tốt với bạn
học và cũng rất quí trọng tình bạn. Vì vậy mà trong rất nhiều tác phẩm
của Cổ Long, tên của các bạn học thời ấy đã được Cổ Long sử dụng làm tên
nhân vật, thậm chí là mô tả tướng mạo, tính cách đều rất sát với con
người thật.
Cổ Long yêu gái đẹp và quan hệ với rất nhiều cô. Ngay từ thời học sinh đã sống chung với vũ nữ Trịnh Lợi Lợi (鄭莉莉), có với cô này một đứa con trai. Rồi ông lại say mê vũ nữ Diệp Tuyết (葉雪), cũng có với cô này một đứa con trai. Sau đó, ông kết hôn với Mai Bảo Châu,
là nữ sinh học Cấp III (高中生梅寶珠). Do không chịu được tính khí của Cổ
Long, dù đã có với ông một đứa con trai, Mai Bảo Châu đã ly hôn với ông.
Cuối cùng, Cổ Long kết hôn với Vu Tú Linh
(于秀玲) và ở với nhau cho đến cuối đời. Ngoài những mối tình chính thức
kể trên, Cổ Long cũng âm thầm quan hệ với nhiều người phụ nữ khác.
Tương truyền bút danh "Cổ Long" của ông cũng có liên quan đến một
người con gái. Trong khi theo học tại Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm
Giang", lớp của ông có tất cả là 36 học sinh, tuy nhiên trong số đó chỉ
có 4 nữ. Trong số 4 nữ sinh ấy, có một cô tên "Cổ Phụng"
là đẹp nhất nhưng lại tỏ ra cô độc, rất hiếm khi chuyện trò với các bạn
cùng học. Các bạn trai trong lớp thường hay trêu chọc cô gái này, họ đã
đặt cho cô ta biệt hiệu là "Chim" (鳥). Hùng Diệu Hoa cảm thấy yêu thích
Cổ Phụng, vì vậy mà chủ động tiếp cận, làm quen. Tuy nhiên, với vóc
người lùn thấp (khoảng 1,56 mét), đầu thì to như quả dưa, miệng rộng,
mắt hí (các bạn học đặt cho Hùng Diệu Hoa biệt hiệu "Đầu to" 大頭), Cổ
Phụng không thèm để mắt đến anh chàng này. Sau đó một thời gian, cha của
Cổ Phụng qua đời. Hùng Diệu Hoa hay được tin, mặc dù lúc ấy đang mưa to
như thác đổ, cũng vội tìm đến nhà Cổ Phụng để an ủi. Lúc Hùng Diệu Hoa
đến nhà thăm viếng, vì Cổ Phụng không có người thân nào bên cạnh nên rất
xúc động, sà vào lòng của anh ta mà khóc nức nở. Hùng Diệu Hoa cũng
liên tưởng đến hoàn cảnh đáng thương của gia đình mình nên cùng khóc
theo cô nàng. Lát sau, Cổ Phụng bớt đi đau thương thì chợt thấy mình
đang tựa vào lòng của Hùng Diệu Hoa, vì vậy mà vội xê người ra và lên
tiếng mời Hùng Diệu Hoa rời khỏi nhà mình. Hùng Diệu Hoa cố gắng giãi
bày, nói rõ tình cảm của mình đối với Cổ Phụng là chân thành và sâu sắc,
tuy nhiên Cổ Phụng vẫn không chấp nhận. Hùng Diệu Hoa bèn lập lời thề
là nếu không được sống chung với Cổ Phụng, ông sẽ làm cho cô ta mãi mãi
nhớ đến mình. Từ đó, Hùng Diệu Hoa bắt đầu sử dụng bút danh "Cổ Long"
(Không rõ có phải vì câu chuyện này mà Hùng Diệu Hoa bỏ học vào năm thứ
hai ở Trường chuyên khoa Anh ngữ "Đạm Giang").
Khoảng thời gian 1984-1985, sức khoẻ của Cổ Long sa sút trầm trọng.
Ông mất vào lúc 18 giờ 3 phút ngày 21 tháng 9 năm 1985 vì biến chứng của
bệnh sơ gan, làm cho tĩnh mạch trướng thực quản vỡ ra, xuất huyết trầm
trọng. Trong đám tang của Cổ Long, những người phụ nữ từng quen biết
hoặc quan hệ với ông trước đây đều không có ai đến viếng (Người ta kể
rằng: câu nói cuối cùng của Cổ Long trước lúc qua đời là "Sao chẳng có
người bạn gái nào đến thăm tôi cả?").[cần dẫn nguồn]
Lúc hạ huyệt, bạn bè của ông lần lượt đem rượu đến đặt bên quan tài. Có
lẽ họ đã bàn bạc với nhau từ trước, vì vậy mà người ta đếm được có tất
cả 48 chai rượu loại XO
(là loại rượu Cổ Long thích uống nhất khi còn sống), tương ứng với số
tuổi mà Cổ Long hưởng dương (dựa theo chi tiết này thì Cổ Long sinh vào
năm 1937).